Ký ức về phép nhiệm màu

Vậy là mùa và năm cứ thế trôi qua, tôi đau lòng chứng kiến những bóng tối đang bao phủ thế giới này. Nó phân chia thế giới… Tôi đau khổ vì vẻ đẹp và sự kỳ diệu đang bị mất đi, giống như một loài hoa dại đã dần biến mất khỏi đồng cỏ. Từ nhiều năm nay, tôi đã bị ám ảnh bởi những ký ức cổ xưa, trước cái thời điểm suy tàn này, khi ánh sáng và sức mạnh tạo hoá hợp nhất trong sự phúc lạc thần thánh. Khi mà mọi thứ thật đơn giản, nhân loại mang sự trong trẻo của trẻ thơ và sự thiêng liêng thần thánh hiện diện ở khắp mọi nơi, hiển nhiên như hơi thở, đẹp đẽ như hơi thở đầu tiên của mùa xuân.

Khi mà cái Biết hiện diện, môt sự Biết về mục đích thánh thiện của tạo hoá, về vẻ đẹp và sự kỳ diệu của nó. Cái Biết này là một thực thể sống động, dạy cho chúng ta qua tiếng nói phong phú kỳ diệu của thế giới xung quanh: qua dòng sông êm ả và những cơn bão phẫn nộ, qua tiếng hót của những chú chim, các con vật, qua ngôn ngữ đầu tiên của sự sống. Đó là một niềm phúc lạc sống động của sự sống giao hoà cùng nhau. Khi chúng ta là một phần của tất cả, một phần của sự sống, những giai điệu và giấc mơ của nó. Đây là những ký ức của tôi.

Đó ta khoảng thời gian mà nhân lại được ban tặng rất nhiều thứ, khi linh hồn của nhân loại và của thế giới thực sự kết nối với nhau. Mẹ thiên nhiên thật hào phóng và đất đai còn thật hoang sơ. Nhân loại biết ơn và ngợi ca ân đức của Mẹ. Đó là thuở ban đầu, thưở của những “Chỉ dẫn đầu tiên”, khi những thiên thần ánh sáng bắt đầu công việc thức tỉnh thế giời. Khi đó, tạo hoá đã trao cho nhân loại những con người đầu tiên, các thầy thuốc, những người chữa lành và những người gìn giữ những con đường thiêng liêng. Tạo hoá tiếp tục ban tên cho các loại động vật để gợi nhớ về sức mạnh của chúng, ban tên cho các loài cây để tiết lộ về khả năng chữa lành của chúng, và tên cho các dòng sông, các ngọn núi để đảm bảo thế giới được duy trì trong sự hài hòa và cân bằng. Và thông qua những thực thể này, nhân loại và thế giới tự nhiên được kết nối trong một mối quan hệ hài hoà, trong một giai điệu hoan ca. Có một cái gì đó thật tinh khiết trong mối quan hệ giữa con người, trái đất và những sinh vật đa dạng của nó, một mối quan hệ mang tính thiêng liêng. Bởi lẽ trong sự hài hoà kết nối này, phép màu nhiệm và ánh sáng ẩn giấu trong thế giới vật chất sẽ được đánh thức. Và ánh sáng này sẽ phục vụ cho một mục đích cao hơn. Đây là điểm bắt đầu của mối giao kèo giữa nhân loại và tạo hoá, là cách mà tự nhiên đã từng là một cuốn sách sống của những giáo lý thiêng liêng.

Giờ đây, nền văn minh của chúng ta chỉ còn coi đó là một truyền thuyết: Adam ở vườn Eden, chỉ còn là một tên gọi cho tạo hoá. Nhưng với tôi, nó luôn là một cái gì đó thật cá nhân, như thể một bài hát mà tôi vẫn mơ hồ nhớ lại, một bài hát có dấu ấn của những giai điệu xa xưa, của một thời đại khác. Đây là ký ức về sự tinh khiết trong trẻo của loài người trước thời đại suy tan này. Đó cũng là ký ức về một mối quan hệ xa xưa với Tạo Hoá, những ký ức mà bắt đầu trỗi dậy và gọi tôi. Trái đất đang gọi, đang kêu gào. Và khi ký ức này trở lại, tôi biết rằng có một cách khác để sống.

Chúng ta không thể trở lại với sự ngây thơ, trong trẻo của thuở ban đầu. Nhưng mối liên kết giữa nhân loại và tạo hoá vẫn còn ở đó, ẩn giấu dưới đống đổ nát của nền văn hóa, trong những hoang mạc khô cằn của nhân loại. Bí mật và sức mạnh của những cái tên vẫn còn. Đó chính là phép nhiệm màu của ánh sáng và tạo hoá. Chúng ta có thể kết nối lại với phép nhiệm màu này. Chúng ta có thể thức tỉnh và kết nối với trái đất cũng như thế giới bên trong của nó. Tất cả những mối liên kết này cần phải được đánh thức lại. được nhớ lại. Phép màu chính là sự kỳ diệu và bí ẩn thực sự của tạo hoá, nó cần được đánh thức và kết nối lại với nguồn gốc của mình trong ánh sáng.

Khi nhớ lại những ký ức cổ xưa, tối thấy mình đi bộ trên trái đất trong sức mạnh của những cái tên, trong niềm vui hân hoan và tình yêu của sự giao hoà với Tạo hoá. Trong trải nghiệm tỉnh thức của tôi lúc 16 tuổi, tôi thấy mình trong khu vườn của tạo hoá, với ánh nắng phản chiếu lấp lánh trên dòng sông cạnh nhà. Đó là một khu vườn nhỏ tràn ngập hoa, nơi tôi dành rất nhiều thời gian ở đó. Đây là một sự thức tỉnh với vẻ đẹp và sự kỳ diệu của trái đất, hương thơm và ánh sáng. Tôi vẫn nhớ như in những ký ức trong những tuần đầu tiên của trải nghiệm tỉnh thức này. Với tôi, nó như ký ức của một mối tình đầu. Nhiều năm sau đó, khi tôi lần đầu tiên được trải nghiệm sự hợp nhất, đó cũng là một lần đi bộ trên các sườn đồi ở phía bắc bang California, dưới ánh nắng và phía xa là Thái Bình Dương.

Vẻ đẹp nguyên sơ của tạo hoá đã gọi tôi suốt nhiều năm, nhắc tôi nhớ về một thưở khi thế giới còn tinh khiết và ngây thơ, trước khi bóng tối và những thách thức ập đến. Giờ đây, tôi cần phải trở lại với phẩm chất nội tại này, về với nốt nhạc của tình yêu sâu đậm đối với Trái Đất. Tôi cần làm sống lại tình yêu này trong trái tim, tâm hồn và thân thể của mình, nếu không tôi sẽ mãi bị mắc kẹt trong hoang mạc khô cằn của nền văn hóa đang trở nên ngày càng độc hại này.

Đây là nỗi đau ám ảnh tôi. Nó còn đau hơn cả việc nhìn các loài đi vào tuyệt chủng, những đồng cỏ mà có thể chúng ta sẽ không bao giờ thấy nữa hay những loài chim và chúng ta sẽ không còn nghe tiếng hót. Một nỗi đau không thuộc về cuộc sống vật chất này. Một nỗi đớn đau vô tận, nó gào thét với những tên gọi của tạo hoá đã bị lãng quên, của các dòng sông một thời đã từng tuôn chảy với phép nhiệm màu và những ký ức còn lâu đời hơn cả tâm trí này. Tôi không bao giờ quên được sự kì diệu của buổi bình minh đầu tiên, khi những bài hát được đánh thức, khi các thế giới được hoà dệt với nhau. Tôi không cố gắng để nhớ, nhưng tôi cũng không thể chối bỏ sự vang vọng của những gì đã mất, giống như những khu rừng cổ đại đã bị chặt phá qua nhiều thế kỷ của sự “tiến hoá”.

Từ thuở trước khi có khái niệm về thời gian, lịch sử của thế giới chúng ta đã được viết nên, khi sự sống được hình thành từ lời ca và được các thiên thần bảo vệ. Đó là khi các trường năng lượng trên trái đất được hình thành và các phép màu được tạo ra, khi các lớp trong và ngoài của thế giới bắt đầu bị chia tách. Và giờ đây, khi hàng ngàn năm đã trôi qua, nhiều đợt thuỷ triều của sự luỵ tàn đến rồi đi, nhưng chúng ta đang đứng ở thời điểm của sự lãng quên lớn nhất, quên mất nguồn gốc của mình. Nhân loại đã hoàn toàn rời xa Cội Nguồn đích thực của mình. Đúng, đã từng có những kỷ nguyên tối tăm, đã từng có những sự phá huỷ khủng khiếp, nhưng chưa từng bao giờ có một sự lãng quên như vậy – chúng ta quên rằng thế giới đã từ có một lịch sử trước khi mọi thứ được ghi lại. Đó là lý do chúng ta đang đứng trước một cách cửa chưa từng được mở, một ngã rẽ chưa từng bước chân qua. Và giờ đây, còn bao nhiêu người nhớ được, kể cả khi chúng ta mang trên mình vết sẹo của những gì đã quên, nỗi đau thống khổ của nhiều thế hệ. Bao nhiêu người trong chúng ta còn nhớ Cội Nguồn?

Tôi vẫn nhớ rõ một thưở, khi mà màu sắc hoan ca trong không trung và phép màu không phải là một bí ẩn mà chính là cuộc sống. Đúng là đã có những tháng năm đau khổ, luôn là những thời khắc khó khăn – đó là cách của tự nhiên – có những năm cằn cỗi và những mùa bội thu, có những mùa hạn hán và có những mùa mưa tươi tốt. Nhưng giờ đây là sự lãng quên của một cái gì đó khác – không phải là một chương trong cuốn sách của cuộc sống mà nó chỉ được ghi nhận như biểu tượng của những gì có thể xảy ra, một khả năng xa vời. Nhưng tuy nhiên, điều đó lại hiển hiện và xoay quanh cuộc sống của chúng ta.

Vậy thì tôi đang chứng kiến điều gì? Và hiện diện trong một thời khắc của lịch sử khi mà mọi nguồn giếng đã cạn kiệt và không khí thì độc hại có nghĩa là thế nào? Và những người gìn giữ sự cân bằng của thế giới đang ở đâu? Đi đâu rồi những người gọi mưa ngồi trong chiếc lều của mình gìn giữ sự cân bằng nội tại? Đi đâu rồi những nhà sư ngồi lần tràng hạt và những lời cầu nguyện cho sự an hoà trên thế giới? Chúng ta biết gì khi chúng ta còn không hiểu được được sự trầm trọng của thời điểm này – thời điểm mà sự tồn tại của một thế giới bên trong đã bị xoá sổ khỏi nền văn minh hiện đại? Dù là những điều cốt yếu vẫn ở đó, như niềm vui và tình yêu, vẻ đẹp của những vì sao hay một buổi hoàng hôn. Nhưng còn đâu những giấc mơ dẫn đường, còn đâu những chỉ dạy để chúng ta đi theo? Rồi thì tâm linh cũng trở thành một thứ hàng hoá để bán trên thị trường. Và sự thật sâu xa thì hầu như không còn một chút vang vọng.

Khả năng nhớ được ký ức là một ân huệ và cũng là một lời nguyền. Sẽ đơn giản biết bao nếu chỉ sống trong giây phút này và không hay biết về những gì đã ra. Sẽ đơn giản nếu chỉ tin rằng những gì chúng ta trải nghiệm bây giờ là tất cả những gì đã từng có. Giống như một đứa trẻ chỉ biết về các con phố và thành thị mà chưa bao giờ được thấy một đồng cỏ mùa xuân hay một khu rừng vàng rực vào mùa thu. Nhưng tình yêu và tiếng cười vẫn còn đó; nước mắt và đau khổ giữ cho linh hồn sức sống. Và trong trái tim chúng ta luôn có hạt giống Phật tính, thúc giục chúng ta trở lại với Cội Nguồn, trở lại với thuở cội nguồn tự do tuôn chảy và tên gọi của tạo hoá vang lên trong gió.

TRỞ VỀ THƯỞ BAN ĐẦU

Có hay chăng ngay từ thuở ban đầu, trước mọi sự chia cắt, trước cả mọi cuộc đấu tranh quyên lực, trước khi phép màu bị biến thành ma thuật gây tổn hại nhiều thứ, mối quan hệ với đấng thiêng liêng là một cái gì đó thật giản dị, một tình can, một tình yêu. Ta và tạo hoá đã cùng nhau bước đi, chân chạm đất và trái tim ngân vang bài ca của tạo hoá. Đó là thời điểm mà “Thiên Chúa đã dạy cho Adam tất cả những cái tên”, và thế giới sống động một sự màu nhiệm tinh khiết. Đó là khi các dòng sông và cây cỏ nhân vang giai điệu về bản chất chân thật của mình, khi mà mọi thứ đều sống động với sự hiện diện của thượng đế. Có lẽ đây chính là vườn Eden. Những khi đó, đây chính là cách mọi thứ tồn tại.

Càng ngày tôi càng bị cuốn về những ký ức cổ xưa này, như một nhịp đập vang vọng của trái tim. Tôi cảm nhận rằng khi đó có một mối liên hệ thân thiết với Tạo Hoá, nhưng cũng thật đơn giản như một bài ca mà tôi không diễn tả được thành lời. Có một cái gì đó thật dịu hiền trong ký ức này, như thể là một cuộc hội ngộ, một cái chạm rất nhẹ. Tôi thường tự hỏi mình về ý nghĩa của lần đầu trải nghiệm sự tỉnh thức, khi tôi 16 tuổi, vào mùa hè năm đó, tôi thấy mình trong khu vườn đó, với ánh sáng phản chiếu trên mặt dòng sông và những bông hoa nở rực rỡ với những màu sắc tôi chưa từng biết đến. Liệu trải nghiệm đầu tiên này của tôi có phải là một ký ức xa xưa, một cách cửa mở ra vào một thế giới vẫn luôn hiện diện mà chúng ta đã lãng quên.

Thuở đó là một lời cầu nguyện không lời, một lời cầu nguyện vì tất cả mọi thứ thật trong sáng. Tôi có thể ngồi và nhìn được tất cả, cảm nhận dòng nước chảy quanh tay khi chạm vào dòng sông. Liệu có phải mọi thứ vào thuở ban sơ là như vậy, Trái đất chính là một lời cầu nguyện sống động với những tên gọi? Những ký ức cổ xưa này ám ảnh tôi, những ký ức về thuở cách đây lâu lắm, trước khi có bất kỳ tôn giáo nào, bất kỳ nhu cầu tín ngưỡng nào, vì mọi thứ đều chỉ đơn giản là bản chất này, ánh sáng trên ánh sáng – đấng thiêng liêng, tạo hoá, những con người sống trên trái đất thưở xưa, những người biết cách thực sự sống. Liệu đó có phải là hình thức cổ xưa nhất của tình bạn – tạo hoá, đấng thiêng liêng và con người cùng bước đi tay trong tay? Khi tất cả trở là một thực thể thiêng liêng sống động, như bình minh ban đầu.

Và giờ đây, sau một hành trình tâm linh đã đưa tôi vượt ra ngoài thế giới bên ngoài này, đi vào thế giới vô hình và xa hơn nữa, trải nghiệm những gì ở bên dưới mọi thứ, vượt ra ngoài có và không, cái mà chúng ta gọi là Thực tại, mặc dù nó không có tên. Sau này khi biết rằng Thực tại này được ghi sâu vào từng tế bào và từng con sao biển, tôi trở về khu vườn giản dị này như một nỗi mong mỏi một tình yêu đầu đời mà chưa bao giờ thực sự hiểu. Đây là nơi mọi thứ bắt đầu, trong kiếp này và tôi cũng cảm nhận được trong rất nhiều kiếp trước đó. Đây chính là nơi “ban đầu” của kinh thánh, khi Chúa trời là không phải là một thứ mà ta phải kiếm tìm, khi mà tình bạn ôm trọn mọi thứ. Khi đó, mọi thứ tồn tại theo đúng nghĩa của nó, mỗi nhánh cỏ, mỗi con người, mỗi giấc mơ đều biết mình thuộc về đâu. Và ở đây, trên thế giới này, con người và Thượng đế có thể gặp gỡ và nói về sự kỳ diệu của thực tại, của tâm linh và của vật chất mà không hề có một sự chia cắt.

Rồi mọi thứ thay đổi. Đó chính là câu chuyện về sự tiến hóa của loài người, truyền thuyết về sự Suy tàn và sự khởi đầu của các tôn giáo như một cách để lấy lại những gì đã mất. Đó cũng là khi phép màu trên trái đất bắt đầu thay đổi, nó không còn là một sự hoan ca giản dị, một lời mời gọi mỗi loài cất lên khúc ca và tên gọi của mình. Đó là khi tâm linh rút về thế giới bên trong và thiên đường và trái đất trở nên riêng biệt. Rồi thì rất nhiều thực hành tâm linh cũng xa lìa trái đất, xa rời cái mô tình tạo hoá về một nơi ẩn náu. Có một cái gì đó của tạo hoá đã bị ẩn đi, một ánh sáng bị lạc mật. Và một tình bạn xa xưa với Thần thánh đã bị bóp méo, bị che khuất. Chúng ta phải trở lại, ta phải kết nối lại với ánh sáng trong mình. Thế giới này ngày càng biến dạng, lạc đường và mất cân bằng hơn.

Nhìn vào thế giới ngày nay, chúng ta thấy bóng tối nhiều hơn ánh sáng. Lời ca ban sơ của tạo hoá, khi mọi dòng sông và ngọn núi đều đưa ta đến với âm nhạc thiêng liêng, đã gấn như tan biến. Thay vào đó, là tiếng ồn, ô nhiễm và những hoang mạc cằn cỗi mà chúng ta đã tạo ra với lòng tham và ham muốn. Nhưng đó không phải là cách mà nhưng “Chỉ Dẫn đầu tiên,” của trí tuệ cổ xưa đã được ban cho chúng ta từ thuở ban đầu. Những hướng dẫn đó vẫn hiện diện, nếu chúng ta biết kiếm tìm, biết nhớ lại. Nếu chúng ta dám quay trở lại các thức sâu sắc của con người để hiện diện với Tạo hoá, dám đặt chân lên mặt đất, thì phép màu vẫn có thể hồi hình. Và trong lòng biết ơn và tôn vinh của chúng ta, thế giới của ánh sáng và thế giới vật chất sẽ hội tụ. Chúng ta là cả thiên đường và trần gian, được sinh ra từ tro tàn và đất bụi. Chỉ cần nhớ điều đó thôi, tình yêu kết nối hai thế giới lại hồi sinh trong trái tim ta. Đó là lời cầu nguyện và lời hứa đã giữ tôi ở lại thế giới này.

Trong ký ức về thuở ban đầu, câu chuyện về trái đất cũng chính là câu chuyện của tôi. Đó là sợi chỉ mà tôi đã cố gắng theo đuổi, sợi chỉ được dệt qua nhiều kiếp sống và trải dọc theo các đại dương. Và trong câu chuyện này, tôi càng cảm thấy gần gũi với chính mình hơn. Chính thế mà tôi thích bới những củ khoai tây từ vườn nhà để nướng cho bữa tối và ăn cùng với bơ và phô mai tan chảy. Sâu thẳm đâu đó trong tôi không hiểu tại sao mọi thứ lại trở nên sai, sai đến vậy, tại sao chúng ta lại phải lãng quên và từ bỏ cách sống cổ xưa, cách tôn thờ và kính trọng Trái đất và Thượng đế, bởi những thứ này thật thiêng liêng. Tại sao phép màu của tạo hoá lại ẩn mất. Tuy nhiên, tôi cũng là một phần của văn hóa lãng quên đó, là tuổi thơ trong một gia đình Anh trung lưu, cho đến khi được đánh thức bởi một công án Zen, trong một khu vườn, cùng với những bông hoa ngát hương, ánh nắng và dòng sông.

Giờ đây, sau hơn một nửa thế kỷ, khi đã có tuổi và ngồi trong vườn, nhìn những thay đổi của mùa, màu sắc khi Hạ sang thu, tôi biết rằng nhận thức nguyên thủy này giống như một hạt giống của ý thức, hạt giống phật tính, mà chúng ta cần cho một câu chuyện mới, cho một cách sống mới trên trái đất. Chúng ta cần trở về với cội nguồn, với thuở mà phép màu sống động, khi chúng ta hiện diện trong một Trái đất sống với tất cả các giác quan của mình. Khoảnh khắc ở bên ngoài thời gian này không hẳn là quá xa, đợi chờ ta ở một nơi mà chúng ta đã lãng quên và bỏ quên, nơi mà tâm trí của ra đã lọc ra. Hạt giống này sẽ đâm hoa kết trái ra sao, các câu chuyện sẽ mở ra thế nào, tất cả là bí ẩn của sự tiến hóa – đó là cách một kỷ nguyên mới sẽ được hình thành. Nhưng giờ đây, hạt giống này cần sự chú tâm của chúng ta, hãy giữ nó trong trái tim, trong trí tưởng tượng và giấc mơ của mình. Và chúng ta có thể nuôi dưỡng hạt giống này bằng nỗi đau về những gì đã mất.

Dịch từ bài: https://goldensufi.org/a-story-of-beginnings/ bởi Minh Ngọc

Bình luận về bài viết này