Giáo dục cho trẻ – Rudolf Steiner (Phần 1)

Trẻ nhỏ không học bằng hướng dẫn hay răn dạy, mà bằng cách bắt chước. Những bộ phận cơ thể vật chất định hình dưới ảnh hưởng của môi trường vật chất. Thị giác tốt sẽ phát triển nơi đứa trẻ nếu môi trường của nó có những điều kiện ánh sáng và màu sắc thích hợp, còn nơi não bộ và hệ tuần hoàn máu những nền tảng vật chất của ý thức đạo đức lành mạnh sau này sẽ được xác lập, nếu đứa trẻ chứng kiến những hành vi đạo đức trong môi trường của nó. Nếu trước năm thứ bảy cuộc đời mình đứa trẻ chỉ nhìn thấy những hành động xuẩn ngốc xung quanh nó, não bộ sẽ mang lấy những hình dạng khiến nó dễ dàng đi vào con đường dại dột về sau.

Cũng như các cơ bàn tay phát triển chắc chắn và khỏe mạnh thông qua việc thực hiện những công việc thích hợp cho nó, não và các bộ phận cơ thể vật chất khác của con người được dẫn dắt vào việc phát triển đúng đắn nếu chúng nhận được những ấn tượng thích hợp từ môi trường. Một ví dụ sẽ minh hoạ rõ nhất điểm này. Anh có thể làm búp bê cho một đứa trẻ bằng cách gấp một chiếc khăn ăn cũ, tạo hai góc này thành chân, hai góc kia thành tay, thắt nút lại làm đầu, và vẽ mắt, mũi cùng miệng là những chấm mực. Hoặc trái lại anh có thể mua cho đứa trẻ thứ được gọi là một con búp bê “xinh đẹp”, có tóc thật và má tô hồng. Chúng ta không cần phải dông dài thêm về việc con búp bê “xinh đẹp” kia hẳn xấu xí và có thể phá hỏng cảm nhận thẩm mĩ lành mạnh cả đời. Ở khía cạnh giáo dục vấn đề là hoàn toàn khác. Nếu có trước mặt chiếc khăn được gấp, đứa trẻ phải bổ sung từ trí tưởng tượng của chính mình những gì cần thiết để biến nó trở nên thật và giống người. Công việc này của trí tưởng tượng đúc nặn và xây dựng những hình dạng của bộ não. Não dần phát triển cũng như các cơ tay dần phát triển khi được làm công việc mà chúng hợp. Khi ta cho đứa trẻ búp bê được gọi là “xinh đẹp”, não chẳng còn việc gì để làm. Thay vì mở mang, nó bị chậm phát triển và cằn cỗi hóa. Người ta nếu nhìn vào được não bộ như những nhà khảo sát tâm linh có thể, và thấy nó xây dựng những hình thể của mình thế nào, chắc hẳn sẽ cho con cái họ chỉ những đồ chơi phù hợp để kích thích và tiếp sức cho hoạt động tạo hình của não. Những đồ chơi chỉ chứa những hình toán học chết có tác dụng làm nghèo nàn và thui chột đi những nguồn lực tạo hình nơi đứa trẻ; trái lại bất cứ thứ gì thổi bừng trí tưởng tượng về những sự vật sống động sẽ hoạt động theo cách đúng đắn. Thời đại duy vật của chúng ta sản sinh được chẳng mấy đồ chơi tốt. Tượng gỗ có thể chuyển động hình hai người thợ rèn đang xoay mặt vào nhau và nện búa xuống một cái đe chẳng hạn là một đồ chơi lành mạnh biết bao. Những thứ như vậy vẫn còn mua được ở các vùng nông thôn. Cũng rất tốt là sách tranh ảnh có những hình ta có thể khiến cử động bằng cách kéo dây phía dưới để đứa trẻ chuyển hóa một bức tranh chết thành cái thể hiện hoạt động mang sức sống. Tất cả những thứ này đem tới sự linh hoạt sống động cho các cơ quan của cơ thể vật chất, và chính từ đó mà những hình dạng đúng của chúng được xây dựng nên. […]

Có thể đưa ra một vài ví dụ nữa. Một đứa trẻ “thần kinh nhạy,” tức là dễ bị kích động, nên được đặt trong môi trường khác biệt với đứa trầm lặng và thờ ơ. Mọi thứ đều phải được cân nhắc, từ màu sắc của căn phòng và những đồ vật các loại thường ở quanh đứa trẻ, cho đến màu sắc của quần áo nó mặc trên người. Người ta sẽ hay làm điều sai lầm nếu không theo sự hướng dẫn của hiểu biết tâm linh. Bởi trong nhiều trường hợp, ý tưởng duy vật sẽ đi trúng ngay vào cái ngược hoàn toàn với cái đúng. Một đứa trẻ dễ bị kích động nên có xung quanh và được mặc cho quần áo những màu đỏ hay hay vàng đỏ, trong khi những trẻ uể oải nên được sử dụng những sắc xanh dương hay xanh lá cây pha xanh dương. Bởi cái quan trọng là màu bổ túc được tạo ra bên trong đứa trẻ. Trong trường hợp màu đỏ thì màu bổ túc là xanh lá cây, và trường hợp xanh dương, màu bổ túc là vàng cam, như chúng ta có thể dễ dàng thấy bằng cách nhìn một lúc vào mặt phẳng có màu đỏ hoặc xanh dương rồi sau đó nhanh chóng nhìn sang mặt phẳng màu trắng. Các cơ quan vật chất của trẻ tạo ra màu tương phản hay màu bổ túc, và chính việc này tạo nên những cấu trúc bộ phận tương ứng mà đứa trẻ cần. Nếu đứa trẻ dễ kích động có màu đỏ quanh nó, nó sẽ tạo ra màu xanh lá bên trong, và hoạt động tạo màu xanh lá này có tác dụng trấn tĩnh. Các bộ phận cơ thể mang lấy khuynh hướng điềm tĩnh. 

Có một thứ cần được nhìn nhận đầy đủ và thấu đáo về giai đoạn này trong cuộc đời đứa trẻ. Đó là việc cơ thể vật chất tự tạo ra thước đo những gì có lợi cho nó. Điều này được thực hiện thông qua việc phát triển những khao khát và thèm muốn. Nói một cách khái quát, cơ thể vật chất khỏe mạnh muốn cái tốt cho nó. Nơi đứa trẻ, hễ cơ thể vật chất đang là trọng tâm thì chúng ta nên chú ý thật sát sao đến những thứ mà khát khao, thèm muốn và vui thú lành mạnh đòi hỏi. Cảm giác thỏa mãn và vui thích là những nguồn lực giúp một cách đúng đắn nhất cho các cơ quan vật chất định hình nhanh chóng và triệt để.

Ở vấn đề này thật quá dễ dàng gây hại khi không đặt được đứa trẻ vào một mối quan hệ vật chất đúng đắn với môi trường của nó. Đặc biệt điều này dễ xảy ra trên phương diện những bản năng ăn uống của trẻ. Đứa trẻ có thể được cho ăn quá nhiều những thứ khiến nó hoàn toàn mất đi bản năng ăn uống lành mạnh, trong khi nếu ta cung cấp thực phẩm bổ dưỡng đúng, bản năng này có thể được bảo toàn sao cho đứa trẻ luôn luôn muốn những thứ lành mạnh cho nó trong hoàn cảnh cụ thể, ngay cả khi đó chỉ là một li nước, và cũng chắc chắn như vậy sẽ quay đầu với những thứ sẽ gây hại cho nó. […]

Tình yêu thương trong giáo dục

Do đó niềm vui của đứa trẻ trong và với môi trường của mình phải được xem là một trong những nguồn lực xây dựng và định hình các bộ phận của cơ thể vật chất. Về giáo viên thì nó cần người có bề ngoài và cung cách vui vẻ, và quan trọng hơn hết là tình yêu thương thật lòng không vờ vĩnh. Một tấm lòng yêu thương như thế mang hơi ấm chảy tràn khắp môi trường vật chất của đứa trẻ có thể nói không quá rằng có tác dụng “sinh nở” ra những hình dạng của các cơ quan vật chất. 

Đứa trẻ nào sống trong môi trường đầy tình thương và hơi ấm như thế và có quanh nó những hình mẫu tốt để bắt chước, nó chính là đang được sống trong môi trường đúng. Chúng ta vì thế nên nghiêm ngặt đề phòng những việc làm trước mặt trẻ mà nó không được bắt chước. Ta không nên làm điều gì để mà sau đó phải nói với đứa trẻ, “Con không được làm như vậy.” Ta có thể nhận ra mức độ mạnh mẽ của khuynh hướng bắt chước ở đứa trẻ con khi quan sát cách nó dùng màu nước và nguệch ngoạc những dấu và chữ viết từ lâu trước khi hiểu chúng. Thật vậy, việc đứa trẻ bắt chước mà sơn bằng màu nước các chữ cái trước rồi sau đó mới học để hiểu nghĩa của chúng là tốt cho nó. Bởi việc bắt chước thuộc về giai đoạn cơ thể vật chất đang phát triển, trong khi ngữ nghĩa lại hướng đến cơ thể sức sống, mà cơ thể sức sống thì không nên tác động vào cho đến khi trẻ thay răng, khi mà lớp vỏ bọc sức sống bên ngoài đã rơi đi. Đặc biệt những năm này trẻ chỉ nên học ngôn ngữ bằng cách bắt chước. Chính thông qua nghe mà đứa trẻ học nói tốt nhất. Không có quy tắc hay hướng dẫn đặt ra kiểu nào có thể có tác dụng tốt. 

Các giai đoạn

Đối với giai đoạn ấu thơ, quan trọng phải nhìn ra giá trị làm phương tiện giáo dục của những thứ như bài hát thiếu nhi. Chúng phải tạo ấn tượng đẹp đẽ và nhịp nhàng lên các giác quan; vẻ đẹp của âm thanh phải được coi trọng hơn ngữ nghĩa. Ấn tượng lên mắt và tai càng sống động càng tốt. Những động tác nhảy múa theo nhịp điệu nhạc có ảnh hưởng mạnh mẽ trong việc xây dựng những bộ phận cơ thể vật chất, và chúng ta cũng không nên đánh giá thấp điều này. […]

Cũng như trước bảy tuổi ta phải cho đứa trẻ hình mẫu vật chất thực để bắt chước theo, giữa lúc bắt đầu thay răng và tuổi dậy thì ta phải đưa vào môi trường của nó những thứ mang ý nghĩa và giá trị nội tại thích hợp. Bởi đứa trẻ đang lớn giờ đây chính là nhận được sự dẫn dắt từ ý nghĩa và giá trị nội tại của mọi việc. Những gì đong đầy ý nghĩa sâu sắc được chuyển tải qua hình ảnh và ngụ ngôn chính là những thứ phù hợp cho những năm này. Cơ thể sức sống (vital body) sẽ khai mở những năng lực của nó nếu trí tưởng tượng ngăn nắp được để cho nhận hướng dẫn từ ý nghĩa nội tại mà nó tự khám phá của những hình ảnh và ngụ ngôn nhìn thấy trong đời thực hay truyền đạt đến trí óc. Chẳng phải những khái niệm trừu tượng mà chính là những gì được nhìn thấy và cảm nhận — quả thật không phải bằng các giác quan bên ngoài mà là bằng nhãn quan của trí óc — sẽ tác động đúng đắn vào cơ thể sức sống. Việc nhìn và cảm nhận như vậy chính là phương tiện giáo dục cần thiết trong những năm này. 

Bởi lí do này mà quan trọng hơn hết là trẻ em trai lẫn gái nên có giáo viên là những người có thể đánh thức trong chúng — khi chúng nhìn ngắm và quan sát họ — những năng lực trí óc và đạo đức đúng đắn. Cũng như trong những năm đầu tuổi thơ có thể nói “bắt chước” và “hình mẫu” là những từ thần diệu cho giáo dục, trong những năm của giai đoạn thứ hai này những từ thần kì là “quan hệ thầy trò” và “uy tín.” Những gì đứa trẻ trực tiếp nhìn thấy nơi những người giáo dục mình — qua cảm nhận bên trong — phải trở thành sự tín nhiệm trong nó; đây không phải quyền uy bị ép buộc bằng vũ lực, mà là uy tín nó chấp nhận một cách tự nhiên không chất vấn. Thông qua sự tín nhiệm đó mà nó xây dựng nên lương tâm, những thói quen và khuynh hướng; nhờ sự tín nhiệm đó mà nó trật tự hóa tính khí của mình. Đứa trẻ sẽ nhìn về mọi thứ trong thế giới  qua lăng kính sự tín nhiệm đó. Những lời đẹp đẽ của thi nhân rằng “Mỗi người đều phải chọn một thần tượng để theo dấu chân họ mà bước khi dò dẫm vạch lối cho mình lên đỉnh Olympus” có ý nghĩa đặc biệt trong giai đoạn đời này. Lòng tôn kính và trân trọng là những nguồn lực nhờ đó cơ thể sức sống phát triển đúng cách. Nếu trong những năm này đã không thể hướng đến ai bằng niềm kính trọng vô hạn, ta sẽ phải gánh chịu hậu quả của sự mất mát ấy suốt quãng đời còn lại. Nơi nào vắng bóng lòng tôn kính, nơi đó những nguồn sinh lực của cơ thể sức sống bị ngăn trở phát triển. 

Hãy tự hình dung một sự việc như sau ảnh hưởng thế nào đến tính cách của trẻ. Một cậu bé tám tuổi nghe kể về một người thực sự đáng trân trọng và kính nể. Mọi thứ cậu nghe về người ấy khơi gợi nên niềm cảm phục thiêng liêng trong cậu. Ngày cậu được gặp gỡ người ấy lần đầu đang đến gần. Với bàn tay run rẩy, cậu nhấc cái then cửa mà đằng sau đó sẽ hiện ra trước mắt cậu con người cậu sùng kính. Những cảm xúc đẹp đẽ mà trải nghiệm như thế đem lại là một trong những điều quý báu của cuộc sống. Hạnh phúc thay một đứa trẻ có thể luôn luôn — chứ không phải chỉ trong những khoảnh khắc trang trọng của cuộc đời — ngưỡng vọng các thầy cô cùng nhà giáo dục của mình như những bậc đáng tín nhiệm một cách dĩ nhiên không ngờ vực. 

Ngoài những bậc được tín nhiệm sống này — những người có thể nói là hiện thân cho sức mạnh của trí tuệ và đạo đức đối với đứa trẻ, trẻ cũng nên có những tấm gương khác mà nó sẽ chỉ có thể lĩnh hội bằng trí óc và tâm hồn. Những nhân vật ngoại hạng trong lịch sử, các chuyện kể về cuộc đời của những người đàn ông và phụ nữ vĩ đại: hãy để những nguồn này định đoạt lương tâm và phương hướng của trí óc. Những châm ngôn đạo đức trừu tượng chưa nên được dùng; chúng chỉ có thể bắt đầu ảnh hưởng có lợi khi cơ thể cảm xúc (astral body) tự giải phóng khỏi lớp vỏ bọc của nó ở độ tuổi dậy thì. 

Đặc biệt trong bài học lịch sử, giáo viên nên dẫn dắt bài giảng của mình theo hướng đã chỉ ra ở trên. Khi kể dù là loại chuyện gì cho những trẻ nhỏ trước tuổi thay răng, mục tiêu của chúng ta không thể có gì hơn là kích thích niềm vui, sự sinh động và cảm giác thích thú vui vẻ đối với câu chuyện. Thế nhưng sau khi bắt đầu thay răng, thêm vào những thứ đó chúng ta còn phải nhớ điều khác khi chọn những chuyện kể cho trẻ; đó chính là việc ta đang đặt trước mắt đứa trẻ những hình ảnh của cuộc sống sẽ khơi dậy trong tâm hồn trẻ tinh thần muốn noi theo.

Không nên xem nhẹ sự thật là những thói xấu có thể hoàn toàn được chế ngự bằng cách hướng sự chú ý của đứa trẻ đến những ví dụ phù hợp khiến nó ngỡ ngàng và khó dung nạp. Những lời khiển trách nhiều lắm cũng chẳng giúp được mấy trong chuyện thói quen và khuynh hướng. Tuy nhiên, nếu ta đưa ra bức tranh sống động về một người chịu đầu hàng thói quen xấu tương tự và để đứa trẻ thấy con đường đó thật sự dẫn tới đâu, điều này sẽ tác động vào trí tưởng tượng trẻ thơ và giúp ích rất nhiều trong việc nhổ bật gốc thói quen xấu đó. Sự thật phải luôn được ghi nhớ: không phải những ý tưởng trừu tượng mà chính là những bức tranh sống động được hình dung và lĩnh hội từ bên trong mới có ảnh hưởng lên cơ thể sức sống đang phát triển. Đề xuất vừa được đưa ra chắc chắn cần được thực hiện một cách cực kỳ khéo léo để không bị phản tác dụng và rốt cuộc lại thành ra chính cái trái ngược với ý định. Trong việc kể chuyện tất cả phụ thuộc vào nghệ thuật kể. Do đó mà việc kể bằng miệng không thể cứ đơn giản mà đem thay bằng việc đọc. 

Còn trong một  ngữ cảnh khác, trong giai đoạn giữa tuổi thay răng và dậy thì, việc đưa vào tâm trí trẻ những bức tranh sống động — như ta gọi là biểu tượng — là rất quan trọng. Những bí ẩn của Tự nhiên — những qui luật của sự sống — nhất thiết phải được dạy cho đứa trẻ không phải bằng những khái niệm trí óc khô khan mà đến hết mức có thể phải thông qua những hình ảnh biểu trưng. Những câu chuyện ngụ ngôn chứa đựng những ý nghĩa tâm linh của vạn vật phải được đưa vào tâm hồn đứa trẻ theo cách sao cho nó bằng trực giác và cảm xúc mà cảm nhận chứ không phải qua tư duy mà nắm bắt qui luật ẩn sau mọi sự tồn tại. “Mỗi sự việc diễn ra chính là một câu chuyện ngụ ngôn,” phải là kim chỉ nam cho mọi hoạt động giáo dục của chúng ta trong giai đoạn đời này. Mang tầm quan trọng rất lớn là việc đứa trẻ tiếp nhận những bí ẩn của Tự nhiên thông qua ngụ ngôn trước khi chúng được đưa đến tâm hồn nó dưới hình thức “các qui luật tự nhiên” hay đại loại. Một ví dụ có thể làm rõ ý này. Hãy hình dung chúng ta muốn nói cho một đứa trẻ rằng hồn không chết theo mà thoát ra khỏi cơ thể vật chất. Cách để làm việc này là dùng phép so sánh, chẳng hạn với việc con bướm thoát ra từ cái kén. Cũng như bướm bay lên khỏi kén, sau cái chết hồn con người ra khỏi ngôi nhà cơ thể vật chất. Không ai chưa từng tiếp nhận sự việc này thông qua hình ảnh nói trên mà lại có thể nắm bắt nó được đúng nghĩa dưới dạng những khái niệm trí óc. Bằng câu chuyện như vậy ta hướng không chỉ đến trí năng mà còn đến cảm xúc của đứa trẻ, đến toàn bộ tâm hồn của nó. Một trẻ nhỏ từng trải nghiệm điều này thì về sau, lúc được dạy cùng đề tài nhưng dưới hình thức những khái niệm trí óc, nó sẽ tiếp cận đề tài đó bằng trạng thái tâm hồn khác hẳn. Quả thật là một vấn đề rất nghiêm trọng đối với bất cứ ai nếu như họ đã không được tạo điều kiện để tiếp cận bằng cảm xúc những vấn đề của sự tồn tại. Bởi vậy nhà giáo dục nhất thiết phải có trong tay những câu chuyện ngụ ngôn về tất thảy mọi qui luật của Tự nhiên và bí ẩn của Thế giới. 

(Còn nữa…)


Trích từ bài giảng “THE EDUCATION OF THE CHILD  IN THE LIGHT OF ANTHROPOSOPHY” của Rudolf Steiner.

Dịch giả: Xuân Lan

Bình luận về bài viết này